Mặc dù du lịch nội địa đã giúp cho ngành du lịch Việt Nam vượt qua sóng gió, nhưng ngành này vẫn cần phải có những đổi mới trước khi du lịch quốc tế hoạt động trở lại.

Đối với hầu hết người làm du lịch, ý tưởng về những người du lịch đang lang thang trên một bãi biển cách nhà hàng ngàn dặm hoặc đi thuyền trên biển dường như là một ký ức xa xôi. Trên toàn cầu, các quốc gia đã chứng kiến sự suy giảm từ 35 đến 48% về chi tiêu du lịch năm ngoái so với năm 2019. Với Việt Nam, việc đóng cửa biên giới quốc tế kéo dài mười tháng cũng không tránh khỏi điều này.

Du lịch đóng góp một phần đáng kể vào GDP của Việt Nam, và nền kinh tế dựa vào du lịch trong nước để cứu trợ cho ngành này. Du lịch địa phương đã tiếp tục một thời gian ngắn sau khi đất nước tạm dừng hoạt động vào năm 2020. Phân tích của chúng tôi cho thấy nhu cầu đi lại trong nước ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng và sẽ hồi phục tương đối nhanh vì chi tiêu nội địa tăng lên: những du khách trong kỳ nghỉ không thể ra nước ngoài đang chuyển hướng tiền của họ vào trong nước, ở mức cao hơn năm 2019.

Khi ngành du lịch Việt Nam tiếp tục phát triển và những triển vọng về du lịch quốc tế đang dần trở nên khả thi với việc triển khai vắc-xin, thì ngành du lịch và những người trong ngành cần phải thích nghi để phục hồi du lịch trở lại. Bài viết này đưa ra một cái nhìn tổng quan về tình trạng ngành du lịch của Việt Nam, xem xét làm thế nào ngành này có thể phục hồi và vạch ra một con đường phát triển cho các công ty và ngành du lịch của đất nước.

Tình trạng đi lại ở Việt Nam hiện nay: ngành du lịch không bị chết đuối và vẫn hoạt động

Du lịch Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào du lịch quốc tế, đã giảm mạnh vào năm ngoái. Các chuyến bay quốc tế đã giảm 80% vào tháng 10 năm 2020 so với cùng kỳ năm trước. Tỉ lệ lấp đầy phòng của các khách sạn chỉ còn 30%.

Sự sụt giảm mạnh của du khách nước ngoài đã có tác động vượt mức đối với chi tiêu du lịch – và nền kinh tế tổng thể của Việt Nam – bởi vì họ chi tiêu nhiều hơn đáng kể so với các đối tác địa phương. Năm 2019, năm mà ngành du lịch chiếm đến 12% GDP của đất nước, du khách quốc tế chỉ chiếm 17% tổng số du khách ở Việt Nam nhưng lại chiếm hơn một nửa tổng chi tiêu du lịch – trung bình 673 đô la mỗi du khách so với 61 đô la chi tiêu trung bình của khách du lịch nội địa. Ngành du lịch đã tạo ra công ăn việc làm cho khoàng 660000 lao động từ năm 2014 đến 2019, và sự sụt giảm chi tiêu mạnh mẽ này cũng đã gây khó khăn cho các ngành thực phẩm, đồ uống và bán lẻ của đất nước.

Hình 2: Du khách quốc tế chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng số du khách tại Việt Nam, nhưng lại chi phần lớn

Sự trở lại mức du lịch quốc tế trước đại dịch COVID 19 dường như là xa vời, bởi vậy sự hồi sinh ngắn hạn của ngành du lịch có thể phụ thuộc vào du lịch địa phương. Năm 2019, khách du lịch Việt Nam đã chi 15, 5 tỷ USD, trong đó 5, 9 tỷ USD chảy ra nước ngoài. Phần lớn du khách không thể rời khỏi đất nước, vì vậy họ coi việc du lịch nội địa như là một cách để thỏa mãn nhu cầu du lịch của họ. Do đó, các công ty du lịch nên nắm bắt thời cơ để kiếm lợi ích từ cơ hội này.

Nhìn về tương lai: Ngành du lịch của Việt Nam có thể phục hồi vào năm 2024 nếu thực chiến lược zero-case-first strategy (tạm hiểu: phải tiêu diệt được virus bằng mọi giá trước khi nghĩ đến các vấn đề khác).

Ngay cả khi du lịch trong nước có nhiều thuận lợi, Việt Nam vẫn sẽ phụ thuộc vào thị trường quốc tế, nơi chiếm những 12 tỷ đo la lợi nhuận. Phần lớn du khách quốc tế của Việt Nam đến từ các nước châu Á, trong đó khách đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan chiếm khoảng 80% chi tiêu du lịch nước ngoài ở Việt Nam. Mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ giữa Việt Nam với các nước này có thể dẫn đến sự phục hồi du lịch tương đối nhanh so với các điểm du lịch quan trọng khác ở châu Âu và Bắc Mỹ.

Để tận dụng những mối quan hệ này, Việt Nam đã theo đuổi chiến lược zero-case-first kể từ khi bắt đầu đại dịch. Chiến lược này gắn liền với các thị trường mà ở đó tỷ lệ truyền COVID-19 thấp, và kết quả, niềm tin của khách du lịch, ít nhất ở phạm vi trong nước là tương đối cao

Bằng cách thực hiện chiến lược zero-case-first cũng như tính đến việc các nền kinh tế địa phương đang có khả năng dần phục hồi và các chính sách thúc đẩy du lịch của chính phủ, ngành du lịch của Việt Nam có thể phục hồi ở mức trước khủng hoảng vào năm 2024.

Hình 4: Nếu Việt Nam duy trì tỉ lệ lây nhiễm thấp, ngành du lịch có thể phục hồi lại vào năm 2024 nhờ du lịch trong nước

Theo kịch bản này, ba mô hình đang thay đổi cách các công ty du lịch lên kế hoạch cho sự phục hồi du lịch Việt Nam:

Sự thay đổi trong hành vi du lịch có thể dẫn đến những chuyến đi nội địa cao cấp : Với biên giới còn đóng cửa cho du lịch ra nước ngoài, sự gia tăng các chuyến đi xa xỉ trong nước có thể xảy ra khi du khách phân bổ lại ngân sách của họ. Dĩ nhiên, như đã nói ở trên, sức chi tiêu của khách du lịch trong nước yếu hơn của khách du lịch nước ngoài, vì vậy loại du lịch này không thể lấp đầy hoàn toàn khoảng cách do thiếu du khách quốc tế.
Việc giảm giá có thể được sử dụng để kích thích nhu cầu nhưng không bền vững trong dài hạn : Nhiều công ty du lịch đã cung cấp dịch vụ giảm giá ngay sau cuộc khủng hoảng để cạnh tranh kinh doanh và kích cầu. Điều này có thể dẫn đến giảm giá, đặc biệt là đối với các khách sạn trên toàn quốc, do đó đây không phải là một chiến lược bền vững cho lâu dài.
Các bong bóng du lịch* quốc tế phải được khám phá một cách thận trọng : Hiện nay, Việt Nam có những quy định nghiêm ngặt về đi lại và chỉ cho phép một số chuyến bay quốc tế hàng tuần dành cho các chuyên gia và các nhà ngoại giao, những người bắt buộc phải kiểm tra y tế tại cửa khẩu. Việt Nam cần bảo vệ nguyên trạng tỷ lệ nhiễm COVID-19 gần như bằng không và không thể liều lĩnh mở cửa biên giới tự do cho đến khi đạt được miễn dịch cộng đồng, rất có thể thông qua tiêm chủng quy mô lớn. Do đó, khả năng sẽ mất một thời gian trước khi du lịch quốc tế quay trở lại. Trong khi chờ đợi, có thể có một số cơ hội để theo đuổi những biện pháp từ từ và ít rủi ro hơn. Ví dụ, đã có các cuộc thảo luận về việc thiết lập bong bóng du lịch để cho phép du hành giữa các nước khác với việc truyền bằng 0 hoặc gần bằng không, như Úc, Trung Quốc và Singapore. Các công ty du lịch nên chuẩn bị cho mình cho hai kịch bản: một là bong bóng du lịch mở cửa cho dòng khách du lịch quốc tế, một là du lịch trong nước vẫn mang giá trị là động lực chính trong ngành du lịch

Sáu hành động thúc đẩy sự phục hồi du lịch của Việt Nam

Khi các công ty du lịch hình dung lại con đường phục hồi của họ, điều quan trọng là giải quyết các rủi ro và lo lắng liên quan đến COVID-19, đồng thời giải quyết các vấn đề mà khách hàng đang gặp phải hay xu hướng tồn tại trước khủng hoảng. Dưới đây là sáu bước mà Việt Nam và các nước khác đang tiến hành phương pháp zero-casr-first, có thể thực hiện khi họ bắt tay vào con đường phục hồi này.

1. Tập trung vào du khách trong nước

Cầu nội địa có thể được hồi sinh bằng cách tập trung vào các điểm đến mới nổi với sự hợp tác chung của chính quyền địa phương, các cơ quan du lịch trực tuyến, điểm tham quan, khách sạn và các hãng hàng không. Du lịch ngoài trời có liên quan đến ánh nắng mặt trời, bãi biển, núi non và thiên nhiên là một trong những lựa chọn hàng đầu cho du khách Việt Nam sau khi phong tỏa được dỡ bỏ vào giữa tháng 5 năm ngoái, và các sân bay tại hai trung tâm du lịch lớn của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đang khá bận rộn. Để tiếp tục tận dụng cơ hội trong nước, các nhà khai thác sẽ phải tập trung vào khả năng chi trả trong khi cố gắng duy trì sản phẩm và kinh nghiệm chất lượng cao.
2. Xem xét các mô hình giá mới để xây dựng lại nhu cầu

  Xây dựng lại nhu cầu và thúc đẩy khối lượng thông qua giảm giá và tiền bán hàng là các chiến thuật quan trọng trong giai đoạn đầu phục hồi, đặc biệt là đối với các nhà điều hành cao cấp không thể khai thác đến cầu quốc tế trong một thời gian. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà điều hành phải dừng các chiến lược thương mại hiện có của họ. Các xu hướng và mô hình đặt chỗ trước đây được sử dụng có thể không còn phù hợp với hiện tại. Trong bối cảnh nhu cầu cạn kiệt, nghịch lý là trong khi việc cắt giảm giá rất cần thiết nhưng chúng cũng có thể gây nguy hiểm. Bởi thế cho nên các công ty cũng có thể khám phá các cơ hội để kết hợp các sản phẩm – mang lại cơ hội bán thêm và bán chéo – cũng như đa dạng hóa dòng doanh thu của họ cũng như  nâng cao giá và các sản phẩm cao cấp.

Ví dụ, các khách sạn năm sao ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có thể cung cấp đầy đủ các gói dịch vụ lưu trú “đóng cửa” cho các gia đình, có đầy đủ xe hơi sang trọng, phòng suite( phòng cao cấp nhất) và giảm giá thực phẩm và đồ uống. Các công ty du lịch và khách sạn có thể hợp tác với nhau để cung cấp các gói du lịch từ đầu đến cuối bao gồm các chuyến bay, vé tàu, dịch vụ xe buýt và xe limousine cũng như tiện nghi nơi ở. Các công ty khác có thể tận dụng nhu cầu bùng nổ về các hoạt động xa xỉ và ngoài trời, chẳng hạn như du lịch du thuyền hoặc ở lại trang trại.

Khi nhu cầu và niềm tin tăng lên, các nhà điều hành sẽ tự nhiên có xu hướng quay trở lại mô hình giá lưu động hơn, dựa trên các chỉ số như tỷ suất lấp đầy khách sạn và số lượng hành khách đi lại bằng đường hàng không – và cách họ phát triển để đạt được mức độ trước khi dịch xảy ra. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho các công ty tinh chỉnh cơ chế định giá tối ưu, đặc biệt là xung quanh các ngày lễ quan trọng trong nước như Tết Nguyên Đán. Đây không phải là điều mà tất cả các quốc gia đều làm được. Chẳng hạn, nhiều khách sạn ở Đức đã bỏ qua các cơ hội định giá hoặc quản lý doanh thu khi nhu cầu du lịch mùa hè tăng trở lại vào năm ngoái.
Trong tương lai, các mô hình giá lưu động và chức năng quản lý doanh thu sẽ cần phải được xem xét lại, dựa trên ba tiên đề mới : phân khúc khách du lịch sẽ không giống nhau trong một thời gian dài và sẽ là một tổ hợp nội địa mạnh mẽ và đa dạng hơn; độ co giãn cầu sẽ khác, với các mối quan tâm về sức khỏe đóng vai trò lớn hơn trong việc ra quyết định; và nhu cầu sẽ còn nhiều biến động, như đã thấy ở Việt Nam trong dịp Tết năm nay, khi một lượng nhỏ ca nhiễm COVID-19 tăng nhẹ đã dẫn đến sự sụt giảm lớn trong việc thúc đẩy và nhu cầu đi lại trên khắp cả nước.

3. Bây giờ (thực sự) là thời gian cho kỹ thuật số

Ngay cả trước khi đại dịch xảy ra, sự phụ thuộc của người tiêu dùng vào kỹ thuật số cho các đặt chỗ liên quan đến du lịch đã tăng lên. Năm 2018, hoạt động du lịch trực tuyến chiếm 19% tổng số tour du lịch và quy mô thị trường hoạt động. Đại dịch đã làm cho việc áp dụng các công cụ di động và kỹ thuật số trở nên quan trọng hơn. Các hợp tác chiến lược – chẳng hạn như các cơ quan du lịch trực tuyến cung cấp các dịch vụ đặt vé thông qua nhắn tin tức thời và nền tảng truyền thông xã hội – có thể cung cấp cơ hội tăng cường thâm nhập thị trường.

Đồng thời, các công ty du lịch nên cải tiến điểm cảm ứng và kinh nghiệm trực tuyến của họ để cải thiện trải nghiệm khách hàng. Điều này đã bắt đầu được thực hiện: Trang web của Tổng Cục Du lịch Việt Nam (VNAT) có các tour du lịch ảo cho các điểm đến phổ biến nhất, và một số hướng dẫn viên đã tổ chức các tour du lịch trực tuyến thời gian thực cho khách hàng quốc tế. Ngoài ra, một chương trình quảng cáo có tiêu đề “Why Not Vietnam” được phát sóng trên CNN vào tháng 10 năm 2020 để thu hút lượng truy cập quốc tế vào trang web, và ở cấp độ trong nước, một chương trình thực tế cùng tên đã tổ chức cuộc thi ảnh du lịch trực tuyến hàng tuần để thu hút người xem.

Hơn nữa, các công ty cũng có thể nghĩ về việc đặt các công cụ kỹ thuật số ở những nơi mới trong hành trình của khách hàng. Họ phải nhận ra rằng các yếu tố thúc đẩy lòng trung thành của khách hàng có thể đã thay đổi; ví dụ sự không chắc chắn trong thời gian ngắn có thể có nghĩa là khả năng hủy bỏ việc đặt chỗ quan trọng hơn là lựa chọn thương hiệu hoặc giá cả. Tính đến điều này, các công ty có thể trao quyền cho khách hàng để xây dựng hành trình của riêng họ bằng cách sử dụng công cụ kỹ thuật số được kết nối giúp họ dễ dàng sửa đổi hoặc hủy bỏ kế hoạch của mình. Các giải pháp và chính sách cung cấp sự lựa chọn và kiểm soát sẽ giúp xây dựng niềm tin và sự tin tưởng lâu dài cần thiết để đưa du khách trở lại với du lịch.

4. Bổ sung những trải nghiệm mới cho du khách, không chỉ dừng lại ở cơ sở lưu trú. Phân bố lại đầu tư cho du lịch hướng tới những điểm đến đa dạng, phi truyền thống

Trên thế giới, du khách đang cá nhân hóa những chuyến đi của mình bằng việc thám hiểm các điểm đến. Chi tiêu trong ngành du lịch đang dần chuyển trọng tâm từ chi tiêu cho lưu trú sang chi tiêu cho hoạt động, và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, ngân sách dành cho lưu trú của du khách trong nước đã giảm dần trong vài năm gần đây, từ 23% vào năm 2011 xuống còn xấp xỉ 15% vào năm 2019.

Thay vì chi cho phòng nghỉ hạng sang, du khách đang dành tiền cho những trải nghiệm. Nhiều du khách còn đặt chỗ cho các hoạt động trước khi lên đường. điều đó cho thấy trải nghiệm tại điểm đến có ảnh hưởng lớn đến lựa chọn của du khách. Nhiều hoạt động mạo hiểm như khám phá hang động, đi bộ vùng cao, nghỉ dưỡng trên những hòn đảo tách biệt, thể thao dưới nước và hội chợ ẩm thực đã trở thành những lí do đầu tiên thu hút du khách đến với một điểm du lịch.

Thời gian gần đây tại Việt Nam đã xuất hiện hình thức phát triển tổng thể trải nghiệm đặc sắc thay vì chỉ xây dựng hạ tầng, như việc TP Hồ Chí Minh phát triển “kinh tế ban đêm”, và tỉnh Bình Dương triển khai các hoạt động marketing đa dạng nhằm quảng bá cho lễ hội của mình. Tổng cục Du lịch cũng đóng góp vào nỗ lực này, như việc phát triển hình thức “farm-stay” thành nền tảng cho những trải nghiệm mang tính bản địa. nhiều khu vực cũng đang quảng bá cho những trải nghiệm đặc sắc của địa phương như Đà Lạt với những hoạt động đi bộ và cắm trại, Mũi Né với hệ thống sân golf và thể thao dưới nước, Ninh Bình và Phong Nha – Kẻ Bàng với những hoạt động hòa mình vào thiên nhiên.

5. Đặt nền tảng cho nhu cầu trong nước

Để nắm bắt nhu cầu ra nước ngoài sớm, người làm trong ngành du lịch có thể được hưởng lợi từ việc theo dõi sự phát triển của bong bóng du lịch. Điều này đặc biệt phù hợp với Việt Nam, vì phần lớn du khách đến Việt Nam là từ các vùng lân cận có quan hệ kinh tế mạnh và tỷ lệ lây truyền tương đối thấp. Như đã nêu trong bài viết này, phân tích của chúng tôi cho thấy các nước lân cận như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan có thể cung cấp tăng trưởng chi tiêu trong nước ít nhất là CAGR từ năm 2020 đến 2025.

Trong bối cảnh này, các công ty du lịch cần linh hoạt và nhanh chóng nắm bắt sớm nhu cầu du lịch quốc tế – và cần chuẩn bị để thực hiện các quy trình kiểm tra nghiêm ngặt về sức khỏe và an toàn, đáp ứng các quy định của cả chính sách an ninh trong nước và điểm đến. Điều đó nói rằng, việc cá cược vào bong bóng du lịch tự nó không thể là một chiến lược trong ngắn hạn, vì khách đến quốc tế dự kiến sẽ còn thấp vào năm 2021, và nhu cầu nước ngoài sẽ không trở lại mức năm 2019 trước năm 2025.
Tạo cho khách du lịch những trải nghiệm mới ngoài trải nghiệm về chỗ ở- và ‘phân phối lại’ các đầu tư du lịch cho các điểm đến độc đáo và đa dạng hơn

Trên toàn cầu, khách du lịch đang cá nhân hoá các chuyến đi của họ thông qua các cuộc phiêu lưu điểm đến. Chi tiêu du lịch đang chuyển từ chỗ ở sang hoạt động – một xu hướng đúng với Việt Nam. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, du khách Việt Nam đã phân bổ ngân sách nhỏ hơn cho chỗ ở trong vài năm qua, chiếm khoảng 15% chi phí du lịch trong năm 2019, giảm so với mức 23% vào năm 2011.

Thay vì chi tiêu vào những phòng nghỉ sang trọng, khách du lịch đã tiết kiệm tiền để trải nghiệm nhiều nơi đến hơn. Nhiều du khách đặt các hoạt động trước khi họ đi du lịch, điều này cho thấy trải nghiệm trong địa điểm có tác động lớn hơn trong quá trình ra quyết định du lịch tổng thể. Nhiều hoạt động phiêu lưu mạo hiểm, chẳng hạn như khám phá hang động, đi bộ trên cao nguyên, nghỉ ở đảo biệt lập, thể thao dưới nước, và lễ hội ẩm thực đã trở thành lý do chính để du khách đến thăm một điểm đến ngay từ đầu.

Ở Việt Nam, những ví dụ về nỗ lực nhằm phát triển trải nghiệm riêng biệt chứ không phải là một cơ sở hạ tầng cụ thể đã xuất hiện gần đây, chẳng hạn như phát triển “nền kinh tế đêm” của thành phố Hồ Chí Minh, và sự quảng bá đa dạng từ tỉnh Bình Dương để các lễ hội trở nên nổi bật. Tổng cục Du lịch Việt Nam VNAT cũng tham gia vào nỗ lực này, cụ thể là đưa các nông trại miền núi trở thành trải nghiệm lưu trú mới cho khách du lịch. Trong khi đó, các khu vực khác cũng đang quảng bá các điểm du lịch một cách độc đáo: Đà Lạt giới thiệu các điểm tham quan đi bộ đường dài và cắm trại, Mũi Né chơi gôn và thể thao dưới nước; còn Ninh Bình và Phong Nha-Kẻ Bàng thì thúc đẩy các hoạt động thiên nhiên.

Các nhà khai thác du lịch địa phương – những người thường tụt hậu so với các công ty du lịch lớn về mặt tài nguyên nhưng lại nhanh nhẹn hơn trong việc tổ chức các hoạt động cá nhân, có thể tận dụng những người chơi trực tuyến ngày càng phổ biến để kết nối trực tiếp với khách hàng và cung cấp các tùy chọn này. Các công ty du lịch trực tuyến quốc tế như TripAdvisor, cũng như các công ty quen thuộc như Traveloka và Triip.me đã xây dựng các nền tảng “trải nghiệm” chuyên dụng để truyền cảm hứng cho người dùng và cho phép họ chọn các chuyến thăm phù hợp nhất bằng cách cung cấp một loạt các tùy chọn hấp dẫn cho cuộc phiêu lưu điểm đến. Các công ty du lịch có thể chuyển từ việc xây dựng các khu nghỉ dưỡng hay bán vé ngắm phong cảnh sang thiết kế các hoạt động đặc biệt và coi đây như là đòn bẩy tài chính để tận dụng những xu hướng du lịch.

6. Hình dung lại vai trò của chính phủ trong du lịch

Ở hầu hết các nước, việc đổi mới ngành du lịch sẽ có sự tham gia của các chuyên gia trong ngành làm việc phối hợp với các nhóm ngành và chính phủ. Các nhà quản lý du lịch Việt Nam có một cơ hội để hình dung lại vai trò của mình và dẫn dắt ngành thông qua quá trình phục hồi và vượt xa hơn nữa, đầu tiên là bằng cách thúc đẩy nhu cầu trong nước để bù đắp cho thu nhập bị mất từ khách quốc tế, và thứ hai là quảng bá hình ảnh việt Nam như một quốc gia quản lý tốt đại dịch. Để làm được điều này, ba điều nên xảy ra:

•      Trong ngắn hạn, chính phủ và các hiệp hội ngành cần phải đảm bảo sự tồn tại của các nhà khai thác. Chính phủ có thể thử nghiệm các phương án tài chính mới và bền vững như gộp doanh thu khách sạn, trong đó một nhóm nhỏ khách sạn có doanh thu cao hơn chia sẻ với những khách sạn khác. Điều này sẽ cho phép các khách sạn tối ưu hóa chi phí biến đổi và giảm nhu cầu cho các kế hoạch kích thích của chính phủ.

•      Trong giai đoạn giữa kỳ, việc chuyển đổi kỹ thuật số và phân tích do chính phủ hậu thuẫn là cần thiết, đặc biệt là để tạo sân chơi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm hơn 50% nhà cung cấp du lịch trong năm 2018. Khuyến khích và giúp các nhà khai thác địa phương điều chỉnh theo nhu cầu đối với các dịch vụ du lịch trực tuyến là rất quan trọng để giúp họ duy trì tính cạnh tranh.

Chính phủ có thể đóng một vai trò quan trọng như một người làm mai mối, kết nối các nhà cung cấp cho các nhà phân phối và trung gian để tạo ra các gói hàng hấp dẫn cho một bộ phận du khách cụ thể, và sau đó sử dụng sự tham gia của khách du lịch để cung cấp thêm thông tin chi tiết phân tích cho các trung gian du lịch. Khả năng này cho phép các đại lý du lịch trực tuyến đa dạng hóa các dịch vụ của họ bằng cách cung cấp nhiều trải nghiệm hơn. Mạng lưới phân tích du lịch Singapore (STAN) và các nền tảng Trao đổi Du lịch Úc (TXA) là những ví dụ về cách cơ chế này có thể hoạt động ở quy mô lớn.

•      Cuối cùng, Việt Nam có cơ hội vững chắc để nâng cao vị thế của mình như một điểm đến phiêu lưu. Chính phủ và các hiệp hội ngành có thể tận dụng động lực chung của đất nước, cũng như sự trở lại dự kiến của du lịch quốc tế để thúc đẩy nhu cầu. Phân tích của chúng tôi cho thấy ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, phiêu lưu mạo hiểm vẫn là xu hướng du lịch hàng đầu được du khách tìm kiếm, vì vậy Việt Nam có vị trí rất tốt để thúc đẩy xu hướng này. Tương tự, các khoản đầu tư cũng được dự kiến sẽ chuyển từ các dự án phát triển lớn như Phú Quốc và Nha Trang sang các dự án và thành phố quy mô vừa và nhỏ để cung cấp các dịch vụ chuyên biệt như du lịch thể thao, du lịch y tế, và thậm chí cả du lịch nông nghiệp.

Nhũng người làm du lịch ở Việt Nam có thể tìm cách đẩy nhanh sự phục hồi của ngành bằng cách nắm bắt các cơ hội tăng trưởng mới trong nước khi họ dần dần xây dựng lại niềm tin của du khách quốc tế. Sáu bước mà chúng tôi đưa ra sẽ giúp các bên liên quan trong ngành du lịch của Việt Nam đi đúng hướng và giúp họ phát triển mạnh trong nền kinh tế đu lịch tương lai.

Về tác giả
Margaux Constantin – đối tác trong văn phòng Dubai của McKinsey; Matthieu François- đối tác liên kết tại văn phòng thành phố Hồ Chí Minh, Thao Le- chuyên gia tư vấn.
Các tác giả muốn cảm ơn Celine Birkl, Bruce Delteil và Alex Le vì những đóng góp của họ cho bài báo này.
______________________________________________________________
*Bong bóng du lịch (travel bubbles): “Là thỏa thuận độc quyền giữa các quốc gia hoặc địa phương khá thành công trong việc ngăn chặn đại dịch Covid-19. Nhờ thỏa thuận này, người dân có thể đi lại tự do giữa các nước mà không phải cách ly khi nhập cảnh. Động thái này sẽ cho phép các quốc gia thực hiện những bước đầu tiên nhằm khởi động lại du lịch.”

                                                             (Theo vietnamtourism.gov.vn)

Người dịch: Phương Nhã